Trường Trung Học Cơ Sở Thị Trấn Thới Lai
Tổng lượt truy cập: 956964
Đang truy cập: 89
Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới phương pháp dạy môn ngữ văn 9
Theo: - Cập nhật ngày: 23/12/2011 - 14:19:54

MỘT SỐ BIỆN PHÁP

 ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

GÓP PHẦN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY NGỮ VĂN 9

 
   

 

 

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

Trong những năm gần đây, máy vi tính đã được sử dụng rộng rãi trong nhà trường THCS với tư cách là một phương tiện dạy học.Vì vậy, hình thức sử dụng máy vi tính vào dạy học cũng rất đa dạng và phong phú. Trong đó, bài giảng điện tử là một hình thức được sử dụng phổ biến nhất. Bài giảng điện tử có thể được viết bằng các ngôn ngữ lập trình tùy theo trình độ tin học của mỗi người, hoặc được thiết kế trên các phần mềm trình diễn như frontpage, powepoint…Thực tế cho thấy, việc thiết kế bài giảng điện tử dựa trên phần mềm trình diễn Microsoft powepoint là quen thuộc, gần gũi, đơn giản, tiện lợi, phổ biến và thao tác đơn giản dễ sử dụng hơn cả.

Trong những năm gần đây ngày càng nhiều giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn Ngữ Văn đó là một chuyển biến đáng mừng, đáng trân trọng, cần phát huy. Song, không phải ai, không phải lúc nào tiết dạy bằng giáo án điện tử cũng phát huy hết hiệu quả. Cụ thể có giáo viên giáo viên không hoạch định kế hoạch lên lớp, chưa xác định đơn vị kiến thức, kiến thức tích hợp, ít chú trọng đến phương pháp, phương tiện (nếu có chỉ là những câu hỏi được trình chiếu trên màn hình thay cho việc giáo viên ghi trên bảng đen, như cách làm truyền thống), biến màn hình thay bảng đen phấn trắng. Khi cho học sinh thảo luận nhóm, các em trình bày xong, giáo viên lại củng cố lại bằng những sile đã chuẩn bị sẵn, như vậy vô tình “buộc” các em hiểu theo cách mà giáo viên đã hiểu. Tranh luận, thảo luận trước đó vô tình biến hoạt động nhóm trước đó thành hình thức, khó thuyết phục học sinh.

Nguyên nhân của vấn đề là do nhiều người chưa quan niệm đúng về ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, chưa tận dụng hết các phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ hoạt động dạy học, mà duy nhất chỉ sử dụng giáo án điện tử mà thôi. Hậu quả của việc làm ấy dẫn đến sự chuyển đổi hình thức từ đọc chép, ghi chép sang chiếu chép. Học sinh chỉ tiếp thu hiệu ứng công nghệ thông tin chứ thực sự vẫn chưa chủ động sáng tạo trong vận dụng công nghệ thông tin vào việc học, trong tiếp thu văn bản, các em còn xơ cứng, “chịu” sự áp chế từ các sile trình chiếu được soạn sẵn.

Do đó tìm mộ số biện pháp ứng dụng Công nghệ thông tin trong giảng dạy môn Ngữ văn là đề tài mà tôi nhiều năm trăn trở và nhận thức hết sức cần thiết cho việc giúp học sinh bước đầu làm quen với việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong giờ học văn, đồng thời qua đó giúp tiết học Ngữ Văn thêm sinh động, không nhàm chán, giúp  học sinh tiếp thu bài tốt hơn.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

          Trong quá trình giảng dạy, cũng như rút kinh nghiệm từ những tiết dạy ứng dụng công nghệ thông tin trong thực tiễn, để ứng dụng tốt công nghệ thông tin vào giảng dạy đạt hiệu quả cao, bản thân đã rút ra được những biện pháp sau đây:

          1. Xây dựng thư viên tư liệu

Để phục vụ cho công tác giảng dạy, đối với môn Ngữ văn kho tư liệu là điều kiện cần thiết và đặc biệt quan trọng. Nhưng hiện nay ở môn học này, các đồ dùng trực quan hầu như không có, tranh ảnh minh họa trong sách giáo khoa không nhiều. Chính vì vậy bản thân tôi rất chú trọng xây dựng thư viện tư liệu phục vụ tốt cho công tác giảng dạy.

          - Trước đây thường xây dựng kho tư liệu bằng cách đọc, tham khảo tài liệu, sách, báo và chép lại những thông tin cần thiết vào sổ tích lũy chuyên môn.

          - Hiện nay việc ứng dụng Công nghệ thông tin giúp tôi xây dựng thư viện tư liệu thuận lợi, phong phú, khoa học hơn và không mất nhiều thời gian như trước đây. Việc khai thác tư liệu có thể lấy từ các nguồn:

          + Khai thác thông tin, tranh, ảnh, tư liệu bài giảng từ mạng Internet

          + Khai thác tranh ảnh từ sách, tài liệu, báo chí, tạp chí ...

          Trong quá trình tham khảo sách, báo, tài liệu gặp những tranh, ảnh đặc biệt cần thiết, có thể dùng máy Scan quét ảnh và lưu vào USB, cuối cùng cập nhật vào kho tư liệu của mình để phục vụ cho quá trình giảng dạy.

          + Khai thác từ băng hình, phim video, các phần mềm, tranh ảnh, bản đồ, hình vẽ... thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính

Ví dụ: Khai thác các đoạn phim về các tác giả văn học, các tác phẩm văn học được chuyển thể thành phim hoặc bài hát, khúc ngâm …cần thực hiện thao tác: Mở các băng hình, các đĩa CD - Rom, lựa chọn các đoạn phim có thể làm tư liệu giảng dạy, sử dụng phần mềm cắt các đoạn phim rồi lưu vào máy tính thành các file dữ liệu trong thư viện tư liệu để phục vụ giảng dạy…

     Từ các nguồn khai thác trên giáo viên sẽ lưu trữ cho mình một thư viện tư liệu phong phú, đa dạng để phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên cần lưu trữ thành từng file dữ liệu để dễ dàng tìm kiếm khi sử dụng.

            Ví dụ khi giảng dạy Ngữ văn 9 tôi đã xây dựng kho tư liệu về:

-         Hình ảnh, tiểu sử các tác giả:

 

 

 

 

 

Hå ChÝ Minh

(1890-1969)

Thanh Tịnh

(1911-1988)

Nguyễn Du

(1765-1820)

Nguyễn Đình Chiểu

(1822-1888)

 

 

 

 

Chính Hữu

(1926)

Phạm Tiến Duật

(1941)

Huy Cận

(1919-2005)

Bằng Việt

(1941)

 

 

 

Nguyễn Khoa Điềm

(1943)

Nguyễn Duy

(1948)

Kim Lân

(1920-2007)

Nguyễn Thành Long

(1925-1991)

 

 

 

Nguyễn Quang Sáng

(1932)

Lỗ Tấn

(1881-1936)

M.Go-rơ-ki

(1868-1936)

Lê Anh Trà

(1927-1999)

          - Thư viện tư liệu về các tác phẩm”

 

 

 

 

Truyền Kỳ Mạn Luc (Dạy bài Chuyện người con gái Nam Xương)

Vũ Trung tùy bút

(Dạy bài Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh)

Hoàng Lê Nhất Thống Chí

Bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm

 

 

 

Truyện Kiều

Lục Vân Tiên

LỬA THIÊNG, tác phẩm đầu tay của Huy Cận (NXB Đời Nay xuất bản năm 1940)

Chiếc Lược Ngà

          - Các hình ảnh minh họa:

 

 

 

 

Đền thờ Vũ Nương, minh họa cho Chuyện Người con gái Nam Xương

Nhà sàn Bác Hồ ở Phủ chủ tịch, minh họa cho bài Phong Cách Hồ Chí Minh.

Minh họa cho Chị em Thúy Kiều

Minh họa cho Kiều ở lầu Ngưng Bích

 

 

 

 

Minh họa cho Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga.

Minh họa cho Đồng chí

Một đường Trường Sơn năm xưa, minh họa cho Tiểu đội xe không kính

            Ngoài ra còn nhiều hình ảnh khác nữa ta có thể sưu tầm thành một kho tư liệu, phục vụ rất tốt cho tiết dạy.

          2. Xây dựng bài giảng điện tử.

          a. Các phần mềm thiết kế bài giảng điện tử thường được sử dụng trong dạy học Ngữ văn.

          Phần mềm Công nghệ thông tin được sử dụng phổ biến nhất hiện nay là phần mềm Powerpoint. Đây là phần mềm đơn giản, dễ thiết kế trình chiếu và có tác dụng tích cực, rõ nét nhất. Khi giới thiệu, trình bày và khái quát nội dung bài học, mỗi slide được coi là một bộ phận cũng là một hệ thống con trong hệ thống các nội dung mà bài học cần thể hiện. Ở mỗi slide, có thể chọn hiệu ứng, đưa các tư liệu (phim, ảnh, nhạc, bài đọc tác phẩn …) làm cho bài giảng sinh động lôi cuốn hơn.

          Bên cạnh Powerpoint là phần mềm Violet, phần mềm thiết kế bài giảng điện tử của Công ty Bạch Kim, với giao diện trực quan, dễ dùng, ngôn ngữ giao tiếp hoàn toàn bằng tiếng Việt rất thuận lợi cho giáo viên. Phần mềm này cũng cung cấp một hệ thống các công cụ soạn thảo giúp giáo viên soạn bài giảng nhanh chóng. Trong quá trình soạn giáo án, Violet còn cung cấp sẵn nhiều mẫu bài tập chuẩn thường được sử dụng trong sách giáo khoa, sách bài tập (như bài tập trắc nghiệm, bài tập ô chữ, bài tập kéo thả chữ/kéo thả hình ảnh …), ngoài ra Violet còn hỗ trợ nhiều module cho từng môn học giúp giáo viên tạo được những trang bài giảng chuyên nghiệp. Sau khi soạn thảo xong, phần mềm cho phép xuất bài giảng ra thành một sản phẩm chạy độc lập có thể copy vào đĩa mềm, USB hoặc CD để chạy trên các máy tính khác mà không cần chương trình Violet .…

          b. Quy trình thiết kế một bài giảng điện tử.

          Thiết kế một giáo án điện tử không thể tuỳ tiện, tuỳ hứng mà cần tuân theo những quy tắc, quy trình nhất định tương tự như quá trình soạn một giáo án truyền thống. Việc soạn giảng có thể tiến hành theo các bước sau:

          - Xác định rõ mục tiêu bài dạy.

          - Xác định kiến thức cơ bản, nội dung trọng tâm.

          - Lựa chọn tư liệu, tranh ảnh, phim … và những thông tin cần thiết phục vụ bài dạy.

          - Lựa chọn phầm mềm soạn giảng, lựa chọn cách trình bày, các hiệu ứng phù hợp  … xây dựng tiến trình dạy học thông qua các hoạt động.

          - Chạy thử, sửa chữa và hoàn thiện bài giảng.

          c. Những kinh nghiệm khi soạn giáo án điện tử

Thật ra, ta phải giải quyết khó khăn của học sinh ngay từ người thầy và giải quyết ở ba khâu: soạn Giáo án điện tử, trình chiếu giáo án và hướng dẫn học sinh ghi chép.

Mỗi lớp học có trung bình từ 40-50 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy giáo án điện tử thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi chép được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức sau:

- Về màu sắc của nền hình: Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng chữ màu sậm (đen, xanh đậm, đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.

- Về font chữ: Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Arial, Tahoma, VNI-Helve…) hạn chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.

- Về size chữ: Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, trong kỹ thuật video, khi chiếu trên màn hình TV (25 inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho khoảng 50 người xem thì size chữ thích hợp phải từ cỡ 28 trở lên mới đọc rõ được.

- Về trình bày nội dung trên nền hình: giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống từ trái qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp (thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Ngoài ra, những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như ta mong muốn.

- Trình chiếu giáo án điện tử: Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ chép hơn.

- Hướng dẫn học sinh ghi chép:  Trong tiết học, học sinh phải có sẵn trước mặt sách giáo khoa quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và dùng vở để ghi chép. Khi trình chiếu Power Point và giảng bài, giáo viên hướng dẫn học sinh cách ghi bài học vào vở như sau:

+ Những kiến thức căn bản, thuộc nội dung giáo khoa quy định sẽ nằm trong các slide có ký hiệu riêng. Ví dụ ký hiệu (@, đặt ở góc trên bên trái). Học sinh phải chép đầy đủ nội dung trong các slide này. Tập hợp nội dung các slide có ký hiệu riêng tạo nên kiến thức yêu cầu tối thiểu của tiết học.

+ Những nội dung có tính thuyết minh, minh họa, mở rộng kiến thức sẽ nằm trong các slide khác, không có ký hiệu riêng. Với những slide này, học sinh tự chọn học nội dung để chép tùy theo sự hiểu bài của mình.

+ Với những kiến thức căn bản nhưng khá dài, nếu chép hết sẽ ảnh hưởng đến tiến độ của tiết học, sau khi giảng xong giáo viên hướng dẫn học sinh đánh dấu trong sách giáo khoa để về nhà chép (học sinh sẽ chừa khoảng trống thích hợp).

                - Lựa chọn số lượng Slide cho mỗi bài dạy

          Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy thường thì 1 giờ giảng văn không nên sử dụng quá 10 – 12 slide.

          + Kiểm tra bài cũ : 1 slide.

          + Giới thiệu bài mới : 1 slide ( tiết số..., tên văn bản, tên tác giả)

          + Bài mới: 6- 7 slide ( số slide phụ thuộc và nội dung bài giảng )

          + Củng cố – luyện tập: 2 slide ( tùy thuộc vào số lượng câu hỏi và bài tập mà giáo viên đưa ra)

          + Hướng dẫn về nhà: 1 slide.

- Xây dựng bố cục cho mỗi slide

          Với những slide thực hiện bước kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới, hướng dẫn học bài về nhà thì  bố cục linh hoạt theo nội dung từng bài.

          Với những slide thực hiện bước giảng dạy bài mới, tôi thường xây dựng bố cục như sau:

+ Trên mỗi slide là một dòng tít cố định gồm các nội dung: Tiết dạy-Tên văn bản – Tên tác giả. Dòng tít cố định này, mỗi khi lật sang một slie mới đều có sẵn, giáo viên không phải thực hiện thao tác chiếu.

          Ví dụ:

           Dòng tít cố định

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+ Phần trọng tâm của slide chia làm 2 cột, giống như bảng đen ta vẫn thường làm. Bên trái là bảng tĩnh, bên phải là bảng động.

                Bên bảng tĩnh, ta đưa những đề mục chính của bài học.                  

        Bên bảng động, lần lượt trình chiếu những nội dung, kiến thức mà trong quá trình giảng dạy, tiếp cận tác phẩm, giáo viên và học sinh cùng khám phá (những nội dung trình chiếu được lựa chọn, chắt lọc, cô đọng nhất)

Ví dụ:

 
   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+ Chọn cách trình chiếu: Nên chọn kiểu đưa kiến thức xuất hiện một cách nhẹ nhàng, tự nhiên không nên lạm dụng các hiệu ứng chuyển động khiến cho kiến thức xuất hiện cầu kì. Các dòng chữ nên xuất hiện với tốc độ vừa phải, không nên quá chậm, mất nhiều thời gian, cũng không nên lật quá nhanh các slide gây cho học sinh cảm giác không kịp tiếp thu. Tôi thường chọn các kiểu chuyển động: Blinds, Box, Plus, Expand….Tuy nhiên không nên sử dụng quá nhiều kiểu chuyển động kiến thức trong 1 slide, học sinh mất tập trung, chỉ chờ xem dòng chữ tiếp theo sẽ xuất hiện kiểu nào...

- Lên lớp: 

        Đây là bước quan trọng, nhiều giáo viên chuẩn bị giáo án tốt nhưng giờ dạy không thành công chính là ở bước này.

Trong quá trình giảng dạy không được quá phụ thuộc vào thiết bị và công nghệ mà làm mất khả năng linh hoạt, không bao giờ được coi việc chuẩn bị nội dung của mình là cố định để cứ thế mà làm bất kể tình huống trên lớp đòi hỏi phải điều chỉnh, thay đổi.

Cần làm chủ được công nghệ, không nên ngại việc bổ sung, sửa chữa bài giảng ngay tại lớp bởi vì mỗi một bài dạy luôn có những tình huống bất ngờ xuất hiện, nếu làm chủ được công nghệ ta sẽ dễ dàng thay đổi, điều chỉnh giáo án mà không hề ảnh hưởng đến việc trình chiếu, học sinh cũng không thể biết được giáo viên đã dừng lại để sửa chữa như thế nào. Thiết bị hiện đại cho phép giáo viên dễ dàng làm được điều đó.

Khi sử dụng giáo án điện tử vẫn phải kết hợp linh hoạt với các phương pháp giảng dạy khác. Tuyệt đối không thưc hiện bài giảng kiểu: diễn giải - trình chiếu - học sinh chép - diễn giải- trình chiếu - học sinh chép...Để tránh điều đó, giáo viên phải xây dựng được một hệ thống câu hỏi hay, phù hợp: phát hiện - phân tích - bình giá - tổng hợp...giúp học sinh phát huy năng lực cảm thụ thẩm mĩ, khêu gợi tưởng tượng tái hiện và tưởng tượng sáng tạo, bồi dưỡng năng lực cảm thụ, phát triển năng lực tư duy. Điều đó giúp giáo viên tránh lối suy diễn máy móc, giữ đúng vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng chứ không áp đặt một chiều, học sinh được đặt đúng vào vị trí trung tâm của quá trình tiếp nhận tác phẩm...

Ngoài việc dùng các hình ảnh, đoạn phim…minh họa, cần cho học sinh thảo luận (thảo luận nhóm), kể chuyện, tự nhận xét, phát biểu ý kiến, chơi trò chơi…điều đó giúp học sinh dễ tiếp thu bài học.

          3. Đa dạng hóa các phương pháp dạy học

Giáo án điện tử chỉ là " công cụ hỗ trợ" cho việc dạy học và giúp bài giảng hay hơn, sinh động hơn và nó không thể nào thay thế được người thầy trên bục giảng. Hiệu quả của tiết giảng vẫn tập trung vào vai trò của người thầy.

          Bên cạnh ứng dụng Công nghệ thông tin được coi là phương pháp hiện đại góp phần tích cực cho đổi mới phương pháp dạy học, tôi thường chú ý đa dạng hóa các hình thức dạy học, phải biết kết hợp với các phương pháp dạy học khác như: nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại, thuyết trình, làm việc theo nhóm, hướng dẫn học sinh tự học, tự nghiên cứu...

Tùy theo đặc điểm của từng chương, từng bài, tùy theo đối tượng học sinh để sử dụng các phương pháp giảng dạy thích hợp mới có thể đạt được hiệu quả cao trong dạy và học.

          4. Hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT phục vụ học tập

Những năm gần đây, việc ứng dụng Công nghệ thông tin rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực đã tác động rất lớn đến khả năng ứng dụng Công nghệ thông tin của học sinh. Nhiều em học sinh tiếp cận rất nhanh, sử dụng thành thạo nhiều phần mềm vi tính. Đặc điểm nổi bật ở các em học sinh hiện nay là tính năng động, sáng tạo và yêu thích cái mới. Do vậy việc hướng dẫn học sinh ứng dụng Công nghệ thông tin phục vụ cho phương pháp học tập là điều nên làm và cũng là xu hướng chung trong giáo dục thời đại hiện nay.

- Trong quá trình dạy học tôi thường cung cấp cho học sinh địa chỉ một số trang web và yêu cầu các em tìm kiếm thông tin ở mạng internet để phục vụ công việc học tập theo từng chủ đề, từng giai đoạn văn học hay một bài học về tác phẩm cụ thể. Ví dụ: Có thể hướng dẫn các em lên mạng sưu tầm tài liệu về tác gia Nguyễn Ai Quốc – Hồ Chí Minh hay sưu tầm một số tác giả, tác phẩm văn học, sưu tầm các bản gốc Truyện Kiều bằng chữ Nôm hoặc sưu tầm các đề kiểm tra, ôn tập…

- Từ các tài liệu mà các em sư tầm được, giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh tập thuyết trình về một tác giả văn học, một tác phẩm văn học … kết hợp trình chiếu bằng Powerpiont hay Violet.

III. NHỮNG KINH NGHIỆM BƯỚC ĐẦU TỪ VIỆC ỨNG DỤNG CNTT TRONG GIẢNG DẠY NGỮ VĂN 9

1. Môn Ngữ văn 9 bao gồm các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Văn bản. Trong các phân môn này không phải phân môn nào và không phải bài nào, phần nào của mỗi phân môn cũng đều có thể ứng dụng Công nghệ thông tin để giảng dạy được. Và đương nhiên không phải bất cứ tiết nào, bài nào cũng biến thành giáo án điện tử để trình chiếu được. Muốn ứng dụng công nghệ thông tin thật sự hiệu quả phải chọn các nội dung, các vấn đề phù hợp.

2. Trong dạy – học Ngữ văn, chỉ nên sử dụng Công nghệ thông tin khi thật cần thiết và sử dụng với tỷ lệ ít hơn so với các dạng hoạt động và các phương tiện dạy học khác (như thuyết giảng, đàm thoại, thảo luận nhóm, phát vấn, nêu vấn đề …)

3. Khi sử dụng các phầm mềm thiết kế giáo án điện tử phải thận trọng, cân nhắc để lựa chọn các hiệu ứng phù hợp về màu sắc, kiểu chữ, cỡ chữ, cách chạy chữ, thiết kế màn hình, âm thanh, tiếng động phải phù hợp, tránh lạm dụng.

4. Giáo án điện tử cần phải được thiết kế một cách khoa học, để qua từng slile chi tiết, học sinh phải nhận biết được những nội dung nào là nội dung chính cần ghi chép, nội dung nào là phần diễn giải của giáo viên. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần lưu ý đến khả năng tiếp thu , lĩnh hội kiến thức, khả năng ghi chép bài của học sinh để có hướng điều chỉnh kịp thời.

5. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên là người hướng dẫn học sinh học tập chứ không đơn giản chỉ là người phát động, cung cấp thông tin. Do vậy, giáo viên phải biết đánh giá và lựa chọn thông tin, hình ảnh, đoạn phim phục vụ bài dạy có tính thiết thực, làm rõ nội dung bài dạy, tránh tham lam, nhồi nhét các loại thông tin, phim, ảnh không phù hợp làm giảm hiệu quả bài dạy.

6. Một điều đáng lưu ý là cần hiểu đúng Công nghệ thông tin chỉ là một phương tiện hỗ trợ đắc lực cho đổi mới phương pháp dạy học, bởi vì quá trình giáo dục con người không thể “công nghệ hóa” hoàn toàn được, có nhiều mặt giáo dục không thể quy trình hóa được như giáo dục nhân văn, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ... Xác định điều này, trong quá trình giảng dạy giáo viên tránh lạm dụng CNTT, xem CNTT là độc tôn, là duy nhất.

7.  Để ứng dụng CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả cao, giáo viên phải thường xuyên không ngừng tự học để nâng cao trình độ chuyên môn mà còn phải nâng cao khả năng sử dụng CNTT.

IV. KẾT LUẬN

Công nghệ thông tin nói chung, sẽ giúp giáo viên tiết kiệm được nhiều thời gian, giáo viên sử dụng tốt các tư liệu minh họa sẽ làm học sinh học tập hứng thú hơn. Đồng thời, còn giúp giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tiếp cận được một lượng kiến thức phong phú, sâu rộng mà thật sinh động. Từ đó, góp phần đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường THCS.

Song các phương tiện hiện đại dù tiện lợi đến đâu cũng không thể thay thế hoàn toàn  vai trò chủ động, sáng tạo của giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động nhận thức  của học sinh. Bên cạnh những ưu điểm thì việc ứng dụng Công nghệ thông tin cũng có không ít nhược điểm, cụ thể như nếu ứng dụng Công nghệ thông tin không có sự chọn lọc cho đúng tính chất, nội dung cách thức hoặc ứng dụng Công nghệ thông tin một cách thái quá, cả giờ dạy giáo viên chỉ  click chuột và…click chuột thì sẽ làm mất hết cảm xúc tự nhiên, làm hạn chế chất văn, chất thơ trong từng bài dạy. Như vậy, hiệu quả sẽ không như mong muốn. Tránh tình trạng biến giờ Ngữ Văn thành giờ trình chiếu phim ảnh, tư liệu, nếu giáo viên  quá lạm dụng sẽ làm học sinh  có ấn tượng về nhân vật trong phim mà không tự hình dung, tưởng tượng về nhân vật văn học.

Vì vậy, việc kết hợp các ưu thế của các yếu tố mới, của khoa học công nghệ vào giảng dạy là cần thiết nhưng phải kết hợp linh hoạt với phương pháp dạy học truyền thống sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể có hiệu quả và phát huy tốt tính tích cực, độc lập học tập của học sinh là giải pháp tốt nhất.

Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn là một quá trình đòi hỏi người thầy phải có nhận thức đúng: đổi mới từ từ, từng bước, không nóng vội mà thay đổi hoàn toàn, đổi mới trong việc kết hợp cả truyền thống và hiện đại. Mỗi bài, mỗi giờ lên lớp đổi mới một phần, mỗi chương đổi mới một bài nhằm bảo đảm 3 tiêu chí của một giờ học: dân chủ, tự do và hoạt động.

Không có phương pháp dạy học nào là tối ưu, không phải cứ vận dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đã là đổi mới phương pháp dạy học, thành công trong giờ dạy là nghệ thuật sư phạm của giáo viên, vận dụng Công nghệ thông tin là một hướng đi trong xu thế đổi mới hiện nay mà giáo viên nên vận dụng, điều này không hoàn toàn bắt buộc song chính nó sẽ làm mỗi giờ lên lớp của chúng ta phong phú hơn bởi chúng ta đang làm mới chính mình.

 

DUYỆT ĐỀ TÀI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Thới Lai, ngày 27 tháng 10 năm 2011

NGƯỜI VIẾT

 

 

 

 

Trần Thị Hằng

Về trước Gởi email cho bạn bè In ấn
Lượt xem (2465)bình luận (0) Đánh giá bài viết (6)
Tin mới hơn

Trường Trung Học Cơ Sở Thị Trấn Thới Lai
Điện thoại: 02923.689 369 - 02923. 681 369 - 02923 680 879
E-Mail thcsthitranthoilai@cantho.edu.vn
Website: thcs-ttthoilai-cantho-edu.vn

Thiết kế và phát triển bởi Miền Tây Net